SỘP-MỘT ĐẠI DIỆN CỦA
MỘT THẾ HỆ TOÁN VIỆT NAM
Tạ Duy Phượng
1.
Tôi băn khoăn khi đặt tít cho
bài viết: Dùng từ Sộp hay Giáo sư Tiến sĩ Khoa học Trần Văn Nhung…
Sộp thì nghe dân dã quá, mà Giáo sư Tiến sĩ Khoa học thì nghe hơi trịnh
trọng quá, mà vẫn chưa đủ, chả lẽ lại thêm: Nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo, Nguyên Tổng thư kí Hội đồng Học hàm học vị, rồi còn bao nhiêu thứ
Nguyên khác (Nguyên Hội trưởng Hội toán học Hà Nội,…). Nhưng cuối cùng tôi quyết
định dùng Sộp, vì Sộp nói lên được sự trưởng thành của cả một thế hệ vượt lên cái khổ của thời đại, và có lẽ bác Nhung cũng thích từ này, vì bác đã
có cả một quyển sách tái bản 4 lần với tiêu đề Sộp thành nhà giáo cơ mà…
Tôi rất cảm động khi được Giáo sư Nhung cho hai
quyển sách: Sộp thành nhà giáo và Định lý
cuối cùng của Fermat. Cũng không ngờ lại được Ông quý thế, còn gọi đi ăn
trưa (GS Nhung trả tiền) cùng với cha con GS Phùng Hồ và GS Phùng Hồ Hải tại
khách sạn Daewoo nữa…
Khi đọc đến nửa quyển Sộp thành nhà giáo, tôi
nảy ra ý định viết một bài về Giáo sư Trần Văn Nhung. Nói chuyện, Giáo sư Nhung
khuyên nên viết về một thế hệ toán học Việt Nam, trong đó Giáo sư Nhung chỉ là một củ khoai tây nhỏ "a small
potato" (chữ của Giáo sư Nhung), thậm chí Ông còn gợi ý tôi viết về Ngô
Việt Trung, Đinh Thế Lục,…Tất nhiên các anh Lục, anh Trung tôi cũng quen, vì
cùng ở Viện Toán, thậm chí tôi còn luộc
loạt bài về An Abstract Problem
in Variational Analysis (2008-2014) và quyển sách Multiobjective Linear Programming: An
Introduction (2015) của anh Lục để làm đề tài cho bốn
luận văn Cao học bảo vệ tại trường Đại học Khoa học Tự nhiên. Chưa kể tôi đã sử
dụng các sách báo của GS Lục để làm nghiên cứu. Tôi cũng đã cùng viết sách giáo
trình Đại học hoặc tham gia viết sách giáo khoa Lớp 6 mà Giáo sư Lục làm Tổng
chủ biên (bộ sách này sau Nhà xuất bản Giáo dục ghép với bộ sách khác). Nhưng, có lẽ chưa có duyên với anh Lục, anh Trung,
vậy cứ viết về anh Nhung, lấy Giáo sư Nhung làm điểm nhấn, như một đại diện, để
nói về một thế hệ làm toán, nay ở tuổi 70,…
Lần đầu tôi gặp anh Nhung là vào năm 1976. Khi ấy anh là cán bộ giảng dạy
trẻ, có tài của Khoa Toán, Đại học Tổng hợp Hà Nội, đang soạn cuốn Bài tập Phương trình vi phân cùng với
Giáo sư Nguyễn Thế Hoàn, còn tôi đang là cán bộ Viện Toán, ăn lương thực tập
hai năm. Chúng tôi cùng đi nghe bài giảng của Giáo sư Phạm Hữu Sách cho sinh
viên năm thứ tư. Tôi đi học buổi đực buổi cái, nên phải mượn vở ghi của Giáo sư
Nhung, đến lần sau đi học, không thấy Giáo sư Nhung (có lẽ bận chuẩn bị thi
nghiên cứu sinh), thế là giữ cuốn vở của anh Nhung đến giờ chưa trả lại…
Và bây giờ, lại thường xuyên gặp anh trong các buổi Seminar của Giáo sư Nguyễn
Văn Mậu,…
2
Đọc Sộp, tôi thấy hiện lên một thế hệ các
nhà khoa học Việt Nam nói chung, một thế hệ toán học Việt Nam nói riêng, sinh
ra trong chiến tranh (chống Pháp), lớn lên trong hòa bình và trong chiến tranh
(chống Mỹ), trưởng thành trong thời bao cấp, rất đói và rất khổ, nhưng được thừa hưởng chính sách và chủ trương
đúng của Đảng và nhà nước, nên đã vượt qua mọi khó khăn, và trưởng thành. Đến
nay, thế hệ này cũng đã 70 tuổi, kể cả những Giáo sư cũng đã về hưu,…
Thế hệ này nửa đời đầu (trước 30 tuổi)
là đói và khổ. Nhiều người sinh vào
những năm 47-54, nay đã 70, có lẽ còn nhớ cảnh loạn lạc, ngồi trong thúng một
bên, bên kia là những thứ chổi cùn rế
rách, hoặc thậm chí hai hòn gạch, được mẹ hoặc chị gánh đi tản cư, chạy loạn,…Có người như Giáo sư
Nguyễn Xuân Tấn, có cha là là đội trưởng du kích xã, bị giặc bắt và đã hi
sinh,…
Được vài năm hòa bình, đi bộ đi học,
trường cách nhà 6-10 km, rồi cấp II, cấp III, vào những năm 64-69, thì đầu đội
mũ rơm, đến lớp thì phải đào hầm, nhiều khi máy bay, chui vào hầm thấy rắn ra không
dám ra vì bên ngoài máy bay đang quần thảo, vào không dám vào vì sợ làm kinh động
rắn. Đành đứng im ngoài cửa hầm chờ máy bay bay khỏi, lại vào lớp học tiếp giờ
học, bình thường như chẳng có gì xảy ra… Ngồi học trong lán tranh, mưa nắng rọi
đổ lên đầu. Lớp học ngoài có lũy để tránh bom bi và phải đào sâu xuống thấp nửa
mét, nghỉ tết xong đi học lại, giun đùn lên khắp nền lớp.…
Sáng ra đi học thường nhịn đói, may
lắm là được vài củ khoai luộc, trưa tối thì cũng chỉ cơm độn khoai, ngô…
Đói đến mức đã thành vè: “Đói ăn
hau háu/là các cháu 22” (22 đ là học bổng sinh viên, cũng là tuổi thanh niên,
tuổi ăn mà không có gì để ăn, ăn xong tiêu chuẩn mỗi người là một nắp hầm (bánh bao luộc, nặn khum khum
như nắp hầm) và vài ngụm canh, về nhà chủ (trọ học nơi sơ tán) thấy chủ nhà dọn
cơm, ngửi hơi cơm bốc lên mà bụng cồn cào,.... Khổ đến mức vào sách giáo khoa:
“Mở lồng bàn ra thấy chỉ có đĩa rau luộc. Tí hỏi mẹ: Mẹ ơi, sao nhà ta không
mua thịt mà ăn…”.
Người thành đạt, sau này làm đến Thứ
trưởng, là Giáo sư Trần Văn Nhung, hồi bé, cũng đói. Ông viết (xem [1], trang
44): Bố mẹ tôi là những người
nông dân chính cống. Mẹ tôi là một người phụ nữ tần tảo, chịu thương chịu khó,
suốt đời cơ cực, đầu tắt mặt tối. Bà phải vừa lo cấy hái, vừa lo bữa cơm bữa
cháo cho cả nhà bốn miệng ăn, cùng quẫn nhất là vào những dịp giáp hạt, tháng
ba ngày tám. Chưa xong mùa đã hết thóc, vì phải trả nợ. Tôi còn nhớ có những
khi nhà hết gạo, phải húp bát cháo loãng nấu bằng tép với mấy hạt gạo còn sót lại,
tanh ngòm, hoặc ăn mấy hạt cơm hấp với cám, với củ dong riềng (quê tôi gọi là củ
chóc), không thể nào nuốt được mặc dù bụng đói cồn cào.
Sáng đi học, chiều về đi làm hợp
tác xã lấy công điểm phụ bố mẹ, hoặc chăn trâu, cắt cỏ, bắt châu chấu, tát vét
bắt cá tôm,… Thời đó không có khái niệm đi học thêm. Tối về học bài bên ngọn
đèn dầu…
Thế hệ này đói, ngay cả khi lớn
lên, lấy vợ (vào những năm 75-85) rồi vẫn đói, nhìn thấy vợ bụng mang dạ chửa
phải ăn cơm độn khoai, thức ăn chỉ là tương cà rau, thương đến rớm nước mắt…
Đó là chưa kể chiến tranh đã cướp
đi nhiều người giỏi trong thế hệ này… Họ đã vĩnh viễn nằm xuống, nay có người
còn chưa tìm được mộ, bỏ dở ước mơ nhỏ nhoi là được trở thành kĩ sư, giáo viên…
Nhưng thế hệ này may mắn. May mắn đầu tiên là bình đẳng (tương đối). Xã hội tạo điều
kiện để tất cả trẻ em được đến trường. Các em có năng khiếu được nhà trường
quan tâm bồi dưỡng miễn phí. Nhiều
giáo sư, tiến sĩ của thế hệ này xuất thân từ nhà nghèo, nông dân. Trần Văn
Nhung là một đại diện.
May mắn thứ hai là Chương trình học
toàn diện một cách thực chất, không
chỉ là những khẩu hiệu suông hoặc các thành tích ảo. Nhiều người (các Giáo sư Hà Huy Khoái, Trần
Văn Nhung, Nguyễn Đông Yên,…) đã đoạt giải thi Học sinh giỏi Văn lớp 7, lớp 10
cấp Huyện, Tỉnh hoặc miền Bắc rồi mới đi học Toán. Nhiều người, thày giáo dạy
toán chọn vào đội tuyển toán, thày giáo dạy văn chọn vào đội tuyển văn. Có nhiều
người đi thi học sinh giỏi cả văn lẫn toán. Ngay cả Thể dục cũng được quan tâm.
Giáo sư Hoàng Xuân Phú (cũng có thể coi cùng thế hệ với Giáo sư Trần Văn Nhung)
viết (xem [3]): Nếu có
bị phê phán về chất lượng giáo dục thì người ta thường lôi khó khăn về kinh phí
ra làm lá khiên chống đỡ. Nhưng làm sao đỡ kín được tứ phương? Thuở tôi đi học
phổ thông cấp 2 (lớp 5-7), trường phải sơ tán mỗi nơi một lớp để tránh bom Mỹ.
Lớp tôi dựng cạnh một ngôi chùa, ở giữa đồng mông quạnh. Đến ghế băng bằng gỗ
cũng không có, nên chúng tôi phải lấy 3 đoạn tre ghép lại với nhau, để ngồi học,
cứ nhấp nhổm vì đau... Vậy mà cô giáo vẫn chỉ đạo lấy 2 khúc gỗ xoan, đục lỗ,
xuyên qua đó một đoạn tre rồi dựng lên cạnh lớp, làm xà đơn để học môn thể dục.
Khi tôi học cấp 3 (lớp 8-10), có xà đơn và xà kép cho nam, xà lệch và cầu thăng
bằng cho nữ - một nửa là thầy trò tự làm. Vẫn chưa đủ, cô giáo thể dục huy động
học sinh đóng mấy cọc tre làm cốt, rồi lấy đất thịt đắp lên làm “cừu” để tập nhảy.
Những năm tháng sống dưới bom đạn, bát cơm không có mà ăn, cái quần lành không
có để mặc, mà tiết thể dục còn được các thầy cô lo liệu, thu xếp như vậy. Còn
bây giờ, giữa thời buổi no đủ, xe máy chạy chật đường, quán chơi điện tử mọc khắp
nơi, sân gôn lấn sân tennis, thì tiết thể dục ở các trường được tổ chức thế
nào? Mọi người cứ thử hỏi con cháu mà xem! “Dạo này con học gì trong tiết thể dục
ở trường?” Dù lớp 5, lớp 9, hay lớp 12, câu trả lời thường gặp là “chạy” hoặc
“nhảy xa”. Không mấy khi có chuyện nhảy cao. Các môn thể dục dụng cụ như xà
đơn, xà kép, xà lệch, cầu thăng bằng hay nhảy cừu, nhảy ngựa thì có lẽ bị “tuyệt
chủng”. Ở các trường trọng điểm giữa những thành phố lớn đã như thế, chứ đừng
nói đến vùng sâu, vùng xa. Thành thử nhiều cháu bây giờ cao hơn bố, béo hơn mẹ,
nhưng vén tay áo lên thì chẳng thấy cơ bắp đâu cả. Giáo dục thể chất teo biến
như vậy thì lấy gì để biện minh cho kết quả giáo dục toàn diện?
May
mắn thứ ba là, mặc dù nhiều khó khăn (kinh tế, chiến tranh) và phải lo nhiều việc,
Đảng và nhà nước vẫn có chính sách bồi dưỡng
học sinh năng khiếu. Không phải ngẫu nhiên mà cùng một năm (sinh 1958) xuất
hiện hai ngôi sao: Thần đồng văn học Trần Đăng Khoa và thần đồng toán học Phạm
Ngọc Ánh, chưa kể đến các ngôi sao (cùng sinh năm 1958) tỏa sáng muộn hơn (Nguyễn
Đông Yên,…). Biết Phạm Ngọc Ánh lớp 2 giải được toán lớp 7, thày Hiệu trưởng Trần
Đình Giạn (cũng gốc giáo viên toán, người miền Nam tập kết) cho ngay vào nhóm bồi
dưỡng học sinh giỏi và cho đi thi học sinh giỏi lớp 7 cấp Huyện. Sau đó, tôi
không biết cấp nào (Phòng Giáo dục, Ty hay Bộ?) quyết định cho Ánh nhảy cóc lên
học lớp 6. Bây giờ Giám đốc Sở hay thậm chí Bộ trưởng kí quyết định ấy, chắc bị
ăn cả rổ gạch đá.
Các Giáo sư Hoàng Tụy, Lê Văn Thiêm
đã có kế hoạch bồi dưỡng học sinh năng khiếu toán ngay cả trước khi lớp A0
(khóa đầu: 1967. GS Trần Văn Nhung học khóa này) được thành lập. Giáo sư Phan
Quốc Khánh viết ([3], trang 20): Tôi
tham gia lớp ngoại khoá toán do Giáo
sư Hoàng Tụy tổ chức năm 1963 cho học sinh cấp 3 (thời đó lớp là đặc
biệt, vì chưa có trường chuyên, lớp chọn). Tôi qua được kỳ kiểm tra “đầu vào”
cũng nhẹ nhàng và rất say mê với bài giảng về lát và lưới của GS. Lê Văn Thiêm
(Phó Hiệu trưởng ĐH Tổng hợp), bài giảng về lý thuyết tập hợp và phép toán mệnh
đề của GS. Hoàng Tụy (Chủ nhiệm khoa Toán, mà tôi đã rất thích, của trường
này), bài giảng về xác suất của PTS Trần Vinh Hiển (mới bảo vệ ở Liên Xô về),
cùng nhiều giờ dạy thay của thầy My, thầy Lâm (mới tốt nghiệp và trở thành giảng
viên khoa Toán). Sau này thầy My vẫn hay gọi đùa lớp ngoại khoá này là A(-1),
vì các thế hệ học sinh chuyên toán A0 đã
nổi tiếng.
Các lớp toán đặc biệt của các trường
Đại học và các tỉnh đã đào tạo được nhiều người làm và dạy toán giỏi của thế hệ
này: các GS Trần Văn Nhung, Đào Trọng Thi (A0, ĐHTH); Ngô Việt Trung, Đinh Dũng
(Chuyên Hà Nội); Đinh Thế Lục (Chuyên Ninh Bình), Phạm Ngọc Ánh, Nguyễn Tự Cường,
Nguyễn Đông Yên (ĐHSP Hà Nội), Phạm Thế Long, Lê Tuấn Hoa (ĐHSP Vinh),… Danh
sách trên chỉ là chợt nhớ, không thể
kể hết được, mong được lượng thứ.
May mắn thứ tư là mặc dù chiến
tranh, rất cần người cho mặt trận, Nhà nước vẫn có chính sách gửi người đi học ở
nước ngoài. Mỗi năm có hàng nghìn sinh viên, thực tập sinh, nghiên cứu sinh,
sang các nước xã hội chủ nghĩa học tập, bảo vệ luận án Tiến sĩ, Tiến sĩ khoa học.
Những người này đã góp phần tích cực trong công cuộc xây dựng một nước Việt Nam
thống nhất.
Chất lượng giáo dục khá đồng đều và đạt chuẩn. Nhiều người chỉ học trường làng, sau cũng thành danh (GS
Nguyễn Văn Mậu, GS Trần Đức Vân, GS Hoàng Xuân Phú, GS Nguyễn Xuân Tấn, …). Nhiều
người chỉ học Đại học trong nước, sau này ra nước ngoài vẫn bảo vệ thành công
luận án Phó Tiến sĩ, Tiến sĩ khoa học
(GS Trần Văn Nhung, GS Nguyễn Tố Như,…). Nhiều người được đào tạo hoàn toàn
trong nước, sau vẫn thành công và thành danh (GS Nguyễn Hữu Việt Hưng, GS Lê Mậu
Hải, …). Thậm chí có người đi bộ đội, sau về học tiếp đại học, vẫn thành công
và thành danh (GS Nguyễn Hữu Dư, PGS Nguyễn Văn Châu, …). Có được như vậy một
phần là vì có nền học vấn phổ thông cơ bản và toàn diện. Đây có lẽ cũng là hiện
tượng đáng để các nhà giáo dục và cải cách giáo dục suy ngẫm…
Chất lượng Giáo dục phổ thông và
Giáo dục đại học trong thời chiến khá cao, cao đến mức đáng ngạc nhiên. Mặc dù
phải học trong điều kiện đói và khổ, các học sinh từ nông thôn sang nước bạn vẫn
theo kịp và đứng vào top đầu lớp của các trường Đại học danh tiếng (Lomonosov,
Vacsava, Praha, Minsk,…). Nhiều người (GS Hoàng Tụy, GS Phan Đức Chính, …) làm
ngạc nhiên cả những ông Thày nổi tiếng thế giới. Đúng là khi vận nước lên thì mọi
ngành đều lên. Theo tôi, thời chiến tranh cũng chinh là thời hoàng kim nhất cho
tới nay của Giáo dục và Đào tạo.
May mắn thứ năm của thế hệ này là
sau khi được đào tạo, là được sử dụng ngay và đúng chỗ (về các Viện nghiên cứu
hoặc các trường đại học, các Bộ, Ngành,…). Những người tài, sau khi bộc lộ (bảo
vệ TSKH,…) được sử dụng vào các cương vị lãnh đạo, mà không phải chạy chức như bây giờ (các GS Đào Trọng
Thi, Trần Văn Nhung, Nguyễn Văn Mậu, GS Trần Đức Vân, PGS Hồ Đức Việt,…). Những
người tài có thể ra nước ngoài làm Giáo sư (các Giáo sư Nguyễn Tố Như, Đinh Thế
Lục, Vũ Quốc Phóng…).
3 Vĩ thanh Ở cương vị lãnh đạo nào, Giáo sư Trần Văn Nhung cũng có
nhiều sáng kiến và đấu tranh cho lẽ phải. Đọc Sộp, bạn sẽ thấy một Trần Văn Nhung với nhiều đóng góp cho xã hội. Thí
dụ, khi dẫn đoàn Việt Nam sang Mỹ tham dự Đại
hội thể thao đại học thế giới 1993, Ông đã đấu tranh gay gắt để cuối cùng,
Ban Tổ chức phải sang tận Canada mua, và cờ đỏ sao vàng của Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam được kéo lên trong ngày khai mạc, sánh vai với các cường quốc
năm châu… Một ví dụ này đủ để nói lên lòng tự trọng, tự hào dân tộc và bản lĩnh
của một vị quan chức nhà nước, Giáo sư Trần Văn Nhung, Thứ trưởng Bộ Giáo dục
và Đào tạo khi lãnh trách nhiệm thay mặt tổ quốc. Ngay cả khi về hưu, Ông vẫn
còn nhiều trăn trở về Giáo dục, cải cách giáo dục. Vốn là người giỏi ngoại ngữ,
GS Nhung thấu hiểu những thiệt thòi của người Việt Nam khi kém ngoại ngữ. Trong
thư gửi Bộ Chính trị và Ban Bí thư 2015, GS Nhung viết ([1], trang 241): Khả năng sử dụng tiếng Anh của người
Việt Nam đang là một trong những rào cản không nhỏ tốc độ hội nhập Quốc tế, xây
dựng và củng cố Quốc phòng, an ninh và phát triển văn hóa, xã hội, khoa học,
công nghệ, giáo dục và đào tạo.
Và Ông Kết luận: Tôi
xin đề nghị Bộ chính trị, xuất phát từ thực tiễn cuốc sống, xem xét, tham khảo,
vận dụng những kinh nghiệm quý báu của chính đất nước ta (từ thời Chủ tịch Hồ
Chí Minh), của Singapore và Lý Quang Diệu, của các nước phát triển thần kì
khác, để có quốc sách phù hợp cho tiếng Anh song hành cùng CNTT ở Việt Nam.
Tôi không biết Bộ Chính trị hay Ban
Bí thư đã ra nghị quyết nào sau bức tâm thư của Giáo sư Nhung chưa, nhưng rất
nhiều phản hồi tích cực của cộng đồng sau bức thư này (xem [1], trang 246-262).
Và thực tế đời sống đang thúc đẩy mạnh phong trào học tiếng Anh. Nói riêng
trong toán, rất nhiều lớp Toán Tiếng Anh đã được mở ra tại các Trung tâm, nhiều
cuộc thi Toán Tiếng Anh của nước ngoài (Mỹ, Singapore, Úc, Thái Lan,…) được tổ
chức tại Việt Nam…
Cuối cùng, tôi muốn nói về sự tham
gia của Giáo sư Nhung trong Seminar của Giáo sư Nguyễn Văn Mậu. Những bình luận
và góp ý của GS Trần Văn Nhung giúp các tác giả nhìn vấn đề rộng hơn, bản chất
toán học hơn. Thí dụ, khi bình luận về phương trình nghiệm nguyên, GS Nhung muốn
tác giả không chỉ liệt kê các dạng phương trình nghiệm nguyên, mà còn nhìn vị trí
và vai trò của phương trình nghiệm nguyên trong phát triển nội tại của toán học
và ứng dụng trong đời sống (mật mã,…).
Đọc Sộp thành nhà giáo, ta hiểu thêm ra nhiều điều. Mấy thí dụ trên chỉ
là một vài điểm nhấn.
Bài viết này chỉ là phác thảo đôi
nét về Nhà giáo, nhà quản lý và con người Trần Văn Nhung, như một đại diện của
một thế hệ làm toán, sinh ra và lớn lên trong chiến tranh, trưởng thành trong
thời bao cấp, được may mắn thừa hưởng những chính sách đúng đắn về giáo dục một
thời…
Tài liệu:
[1] Trần văn Nhung, Sộp thành nhà giáo, Tái bản lần thứ tư,
2018, 832 trang.
[2] Phan Quốc Khánh, Nhớ Thầy
Hoàng Tụy, Thông tin Toán học, Tập 24, Số 3, tháng 9-2020, trang 19-24.
[3] Hoàng Xuân Phú, Hoàng Tụy
(1927-2020) in trong Ký ức Viện Toán
(Lưu hành nội bộ, chưa in).
|